Xếp đặt thứ tự các quẻ

Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về cách xếp đặt thứ tự 64 quẻ trong Kinh Dịch. Qua đó, ta có thể hiểu rõ hơn về cách thức xem quẻ và áp dụng chúng vào cuộc sống hàng ngày.

Quy trình xếp đặt

Đầu tiên, chúng ta cần lập một bảng 8 hàng ngang và 8 cột dọc, tổng cộng 64 ô. Mỗi ô sẽ được đánh số thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Tại góc trên bên trái của mỗi ô, ta sẽ viết quẻ “thượng quái”. Cột đầu tiên sẽ viết quẻ “Khôn”, cột thứ hai viết quẻ “Cấn” và tiếp tục cho đến cột cuối cùng “Càn”.

Ở phần dưới của mỗi ô, ta sẽ viết quẻ “hạ quái”. Hàng đầu tiên sẽ viết quẻ “Khôn” từ trái sang phải, hàng thứ hai viết quẻ “Cấn” và tiếp tục cho đến hàng cuối cùng “Càn”.

Số thứ tự và những quả của nó

Số thứ tự được ghi trên bảng là số thứ tự nguyên thủy. Tuy nhiên, sau này, người ta đã sử dụng một thứ tự khác dựa trên Tự quái ở mỗi đầu quẻ. Bảng thứ tự mới này được ghi bằng số La Mã ở góc dưới và bên phải của mỗi ô.

Ví dụ:

  • Quẻ Bát Thuần Càn (Càn-Càn) trước đây là số 64, hiện tại là I
  • Quẻ Bát Thuần Khôn (Khôn-Khôn) trước đây là I, hiện tại là II
  • Quẻ Thuỷ Lôi Truân (Khảm-Chấn) trước đây là số 35, hiện tại là III
  • Quẻ Sơn Thủy Mông (Cấn-Khảm) trước đây là số 18, hiện tại là IV, và cetera.

Hệ thống nhị phân và 64 quẻ

Rất lạ là trong quá khứ, để lập 64 quẻ trong Kinh Dịch, người ta đã sử dụng hệ thống nhị phân (binary system) thay vì hệ thống thập phân (decimal system). Hệ thống nhị phân được phát minh vào năm 1679 bởi nhà toán học Leibniz và hiện nay được sử dụng rộng rãi trong các máy tính.

  1. Hệ thống nhị phân bao gồm hai dấu hiệu là 0 và 1. Mỗi dấu hiệu 1 được nhân đôi giá trị so với dấu hiệu 1 trước đó, không phải gấp 10 như trong hệ thập phân.

Ví dụ:

  • 0 -> 0
  • 1 -> 1
  • 2 -> 10 (2 + 0)
  • 3 -> 11 (2 + 1)
  • 4 -> 100 (4 + 0 + 0)
  • 5 -> 101 (4 + 0 + 1)
  • 6 -> 110 (4 + 2 + 0)
  • 7 -> 111 (4 + 2 + 1)
  • 8 -> 1000 (8 + 0 + 0 + 0)
  1. Dựa trên hệ thống nhị phân, các quẻ trong bảng được đánh số dưới dạng nhị phân. Ví dụ, quẻ Địa Thiên Thái (Khôn-Càn) có số 57 trong bảng. Trừ đi 1, ta được số 56. Tiếp theo, chia số đó cho 2 và ghi lại số dư phần nguyên. Tiếp tục cho đến khi số đem chia là 0.

Ví dụ:

  • 56/2 = 28 (dư 0)
  • 28/2 = 14 (dư 0)
  • 14/2 = 7 (dư 0)
  • 7/2 = 3 (dư 1)
  • 3/2 = 1 (dư 1)
  • 1/2 = 0 (dư 1)

Cuối cùng, ta được chuỗi nhị phân 000111, tương ứng với quẻ Địa Thiên Thái.

Thứ tự các quẻ căn bản

Trong đoạn A, chúng ta đã biết rằng thứ tự 8 quẻ căn bản 3 hào là: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Li, Đoài, Càn. Vậy tại sao lại theo thứ tự đó cho 8 quẻ căn bản 3 hào?

Khi lập bát quái đồ, người Trung Hoa đã vẽ 4 phương và 8 hướng. Họ đặt quẻ Càn ở phương Nam vì mặt trời xuất hiện ở phương Nam khi mà nhìn từ Trung Quốc. Vậy nên, phương Nam được đặt ở trên cùng của bản đồ. Tự nhiên, các phương hướng và quẻ tượng trưng theo sau theo thứ tự: Càn (1), Đoài (2), Li (3), Chấn (4). Tuy nhiên, để đi từ Phương Nam (Càn) đến phương Bắc (Khôn), họ không đi ngược chiều kim đồng hồ như bình thường, mà đi theo chiều thuận: Tốn (5), Khảm (6), Cấn (7) và cuối cùng là Khôn (8).

Sau đó, họ lập bản đồ theo cách thường dùng hiện nay, tức là phương Bắc được đặt ở trên cùng, phương Nam ở dưới, phương Đông ở bên phải và phương Tây ở bên trái. Vì vậy, ta có thứ tự mới cho 8 quẻ căn bản 3 hào là: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Li, Đoài, Càn.

Giải thích thứ tự các quẻ

Trong đoạn D, chúng ta đã tìm hiểu về thứ tự 64 quẻ trong Kinh Dịch. Thứ tự này được giải thích dựa trên Tự quái của mỗi quẻ. Tuy nhiên, lời giải thích này không thực sự thuyết phục hoàn toàn. Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy những nét rõ rệt sau đây:

  1. Có những cặp quẻ Bát Thuần (thượng quái và hạ quái) đi liền với nhau, để giúp đỡ hoặc bổ khuyết cho nhau:
  • Bát Thuần Càn đi liền với Bát Thuần Khôn (I, II)
  • Bát Thuần Khảm đi liền với Bát Thuần Li (XXIX, XXX)
  • Bát Thuần Chấn đi liền với Bát Thuần Cấn (LI, LII)
  • Bát Thuần Tốn đi liền với Bát Thuần Đoài (LVII, LVI)
  1. Có những cặp quẻ có thượng quái và hạ quái trao đổi vị trí, để đối chọi với nhau và chứng tỏ dịch lý “Cùng tắc biến”:
  • Thủy Thiên Nhu và Thiên Thủy Tụng (V, VI)
  • Địa Thủy Sư và Thủy Địa Tỷ (VII, VIII)
  • Địa Thiên Thái và Thiên Địa Bĩ (XI, XII)
  • Thiên Hoả Đồng Nhân và Hỏa Thiên Đại Hữu (XIII, XIV)
  • Hỏa Địa Tấn và Địa Hỏa Minh Di (XXXV, XXXVI)
  • Thủy Hỏa Ký Tế và Hỏa Thủy Vị Tế (LXIII, LXIV)
  1. Có những quẻ có tính cách giống nhau như Tốn Đoài có thể thay thế nhau khi đi với một quẻ ba hào khác:
  • Phong Thiên Tiểu Súc và Thiên Trạch Lý (IV, X)
  • Địa Trạch Lâm và Phong Địa Quán (XIX, XX)
  • Phong Hỏa Gia Nhân và Hỏa Trạch Khuê (XXXVII, XXXVIII)
  1. Có những quẻ có tính cách đối nhau như Chấn-Cấn thay thế nhau khi đi với một quẻ khác để tỏ rõ tính chất tương phản:
  • Thủy Lôi Truân và Sơn Thủy Mông (III, IV)
  • Sơn Lôi Kiển và Lôi Thủy Giản (XXXIX, XL)
  • Địa Sơn Khiêm và Lôi Địa Dư (XV, XVI)
  • Sơn Địa Bác và Địa Lôi Phục (XXIII, XXIV)
  • Hỏa Lôi Phệ Hạp và Sơn Hoả Bí (XXI, XXI)
  • Lôi Hỏa Phong và Hỏa Sơn Lữ (LV, LVI)
  • Thiên Lôi Vọng và Thiên Sơn Đại Súc (XXV, XXVI)
  • Lôi Thiên Đại Tráng (XXXIII, XXXIV)
  1. Quẻ Tốn-Đoài có thể thay thế nhau khi đi với một cặp tương phản Chấn-Cấn:
  • Trạch Lôi Tùy và Sơn Phong Cổ (XVII, XVIII)
  • Sơn Lôi Di và Trạch Phong Đại Quá (XXVII, XXVIII)
  • Trạch Sơn Hàm và Lôi Phong Hằng (XXXI, XXXII)
  • Sơn Trạch Tồn và Phong Lôi Ích (XLL, XLII)

Như vậy, chúng ta đã tìm ra 32 cặp quẻ tương ứng với 64 quẻ sáu hào. Những cặp này có thể được chia thành 5 loại khác nhau.

Tuy nhiên, vẫn chưa có một sợi dây hữu lý để liên kết từ 32 cặp ngẫu nhiên đến cặp cuối cùng. Chúng ta phải chấp nhận lời giải thích trong Tự quái và công nhận rằng có những điều chúng ta không thể thấy rõ lắm.

Với việc hiểu về cách xếp đặt thứ tự các quẻ, chúng ta có thể áp dụng kiến thức này vào cuộc sống hàng ngày và tìm hiểu sâu hơn về bản chất của Kinh Dịch.